Các khuyến cáo về liều dùng trong bảng dưới đây được đề xuất làm liều khởi đầu hàng ngày và là thông tin hướng dẫn. Tổng liều dùng trung bình hàng ngày được khuyến cáo có thể được dùng như là liều đơn hoặc chia thành nhiều liều (ngoại trừ trong liệu pháp cách ngày khi tăng gấp đôi liều dùng hàng ngày nhỏ nhất có hiệu quả và được dùng cách ngày vào lúc 8 giờ sáng).
Có thể giảm thiểu tác dụng phụ bằng cách dùng liều nhỏ nhất có hiệu quả trong khoảng thời gian ngắn nhất.
Mức liều dùng có tác dụng ức chế ban đầu có thể khác nhau phụ thuộc vào bệnh lý đang được điều trị. Tiếp tục mức liều này cho đến khi đạt được đáp ứng lâm sàng thỏa đáng, khoảng thời gian thường là 3-7 ngày đối với các trường hợp bị bệnh thấp khớp (ngoài trừ viêm tim do thấp khớp cấp), các bệnh dị ứng ảnh hưởng đến da hoặc đường hô hấp và các bệnh về mắt. Nếu trong 7 ngày mà không đạt được đáp ứng mong muốn thì phải đánh giá lại các trường hợp này để xác nhận chẩn đoán ban đầu. Ngay khi đạt được đáp ứng lâm sàng mong muốn, thì nên giảm dần liều dùng hàng ngày, hoặc là để ngừng điều trị trong các trường hợp bị bệnh cấp tính (ví dụ: bị hen suyễn theo mùa, viêm da tróc vảy, viêm mắt cấp) hoặc là để duy trì mức liều tối thiểu có hiệu quả trong các trường hợp bị bệnh mạn tính (ví dụ: viêm khớp dạng thấp, lupus ban đỏ hệ thống, hen phế quản, viêm da dị ứng). Trong các bệnh lý mạn tính, và đặc biệt là trong bệnh viêm khớp dạng thấp, thì điều quan trọng là việc giảm từ mức liều ban đầu cho đến mức liều duy trì được thực hiện phù hợp với lâm sàng. Không được giảm liều quá 2 mg trong khoảng thời gian từ 7 - 10 ngày. Với bệnh viêm khớp dạng thấp, nên điều trị duy trì với steroid ở mức liều thấp nhất có thể.
Trong liệu pháp điều trị cách ngày, tăng gấp đôi liều dùng corticosteroid tối thiểu hàng ngày và dùng liều đơn vào lúc 8 giờ sáng cách ngày. Liều dùng yêu cầu phụ thuộc vào bệnh lý đang được điều trị và đáp ứng điều trị của bệnh nhân.
Người già: việc điều trị cho các bệnh nhân cao tuổi, đặc biệt là điều trị dài ngày, thì nên dự kiến những hậu quả nghiêm trọng của các tác dụng phụ thường gặp của corticosteroid đối với người già, đặc biệt là chứng loãng xương, đái tháo đường, cao huyết áp, dễ bị nhiễm trùng và bị mỏng da.
Trẻ em: nhìn chung, liều dùng đối với trẻ em nên dựa vào đáp ứng lâm sàng và theo quyết định của bác sĩ. Nên điều trị ở mức liều nhỏ nhất trong khoảng thời gian ngắn nhất. Nên điều trị với liều đơn và dùng cách ngày nếu có thể.
Liều dùng khuyến cáo:
| Chỉ định |
Liều khởi đầu hàng ngày được khuyến cáo |
Viêm khớp dạng thấp
- Nghiêm trọng
- Khá nghiêm trọng
- Vừa
- Trẻ em
|
- 12-16 mg
- 8-12 mg
- 4-8 mg
- 4-8 mg
|
| Viêm da cơ toàn thân |
48 mg |
| Lupus ban đỏ hệ thống |
20-100 mg |
| Thấp khớp cấp |
48 mg cho đến khi ESR bình thường trong 1 tuần. |
| Các bệnh dị ứng |
12-40 mg |
| Hen phế quản |
Lên tới 64 mg liều đơn/ dùng cách ngày lên tới liều tối đa 100 mg. |
| Các bệnh về mắt |
12-40 mg |
| Các rối loạn huyết học và các bệnh bạch cầu |
16-100 mg |
| U lympho ác tính |
16-100 mg |
| Viêm loét đại tràng |
16-60 mg |
| Bệnh Crohn |
Lên tới 48 mg/ngày trong giai đoạn cấp tính |
| Ghép tạng |
Lên tới 3,6 mg/kg/ngày |
| U hạt ở phổi |
32-48 mg dùng cách ngày |
| Viêm động mạch tế bào khổng lồ/ đau đa cơ dạng thấp |
64 mg |
| Pemphigus thể thông thường |
80-360 mg |
Đối với các liều dùng 4 mg; 12 mg; 20 mg; 40 mg; 60 mg; 100 mg và 360 mg nên chuyển sang sử dụng các dạng phân liều khác có hàm lượng thích hợp.
Tác dụng ức chế miễn dịch/ tăng độ nhạy cảm với các bệnh nhiễm khuẩn
Các corticosteroid có thể làm tăng nguy cơ nhạy cảm với nhiễm khuẩn, có thể che lấp một số dấu hiệu nhiễm khuẩn và các nhiễm khuẩn mới có thể xảy ra trong quá trình dùng thuốc. Ức chế phản ứng viêm và chức năng miễn dịch làm tăng nhạy cảm với các nhiễm khuẩn nấm, virus và vi khuẩn và làm cho bệnh nặng lên. Các biểu hiện lâm sàng thường không điển hình và có thể đến giai đoạn tiến triển trước khi được phát hiện.
Những người dùng thuốc ức chế miễn dịch dễ bị nhiễm khuẩn hơn người khỏe mạnh. Ví dụ bệnh thủy đậu và sởi có thể nặng hơn hay thậm chí là gây tử vong ở những trẻ em không có miễn dịch hoặc ở người lớn dùng corticosteroid.
Thủy đậu là mối lo ngại lớn vì bệnh thường nhẹ nhưng có thể gây ra tử vong ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch. Các bệnh nhân (hoặc cha mẹ của trẻ) không có tiền sử về bệnh thủy đậu thì nên tránh tiếp xúc gần với những bệnh nhân bị thủy đậu hoặc Zona thần kinh và nếu có tiếp xúc với những người này thì nên được chăm sóc y tế khẩn cấp. Với những bệnh nhân không có hệ miễn dịch đang được dùng corticoisteroid toàn thân hoặc đã dùng thuốc trong 3 tháng trước đó, thì cần phải tạo miễn dịch thụ động bằng kháng thể thủy đậu-Zona và nên dùng trong vòng 10 ngày sau khi tiếp xúc với bệnh thủy đậu. Nếu được chẩn đoán là bị thủy đậu thì cần có chăm sóc đặc biệt và điều trị khẩn cấp. Nên tiếp tục dùng corticosteroid và có thể phải tăng liều dùng lên.
Nên tránh tiếp xúc với bệnh sởi. Nếu có phơi nhiễm với bệnh thì phải tìm lời khuyên của bác sĩ ngay lập tức. Có thể cần phải phòng bệnh bằng globulin miễn dịch tiêm tĩnh mạch thông thường.
Cần dùng thận trọng khi dùng các chất tượng tự corticosteroid ở những bệnh nhân bị nhiễm hoặc nghi ngờ có nhiễm ký sinh trùng, như nhiễm giun kim, mà có thể dẫn đến chứng giun kim bội nhiễm và chứng ấu trùng di chuyển lan rộng, thường đi kèm với viêm ruột nặng và nhiễm khuẩn huyết gram (-) có thể gây ra tử vong.
Việc dùng các vacxin sống hoặc sống, giảm độc lực được chống chỉ định với những bệnh nhân dùng corticosteroid ở mức liều ức chế miễn dịch. Đáp ứng tạo kháng thể với các vacxin khác có thể bị giảm bớt.
Việc dùng corticosteroid trong bệnh lao thể hoạt động nên hạn chế trong các trường hợp bệnh lao lan tỏa hoặc bùng phát đột ngột, mà corticosteroid được dùng phối hợp với phác đồ kháng lao thích hợp. Nếu dùng corticosteroid ở người bệnh lao hoặc phản ứng với tuberculin tiềm tàng, thì cần có sự theo dõi chặt chẽ vì có thể xảy ra sự tái kích hoạt bệnh lao. Nếu điều trị corticosteroid kéo dài thì những bệnh nhân này nên được dự phòng bằng thuốc.
Bướu thịt Sarcoma Kaposi đã được báo cáo ở những bệnh nhân dùng corticosteroid. Bệnh có thể thuyên giảm khi ngừng corticosteroid.
Vai trò của corticosteroid trong sốc nhiễm khuẩn còn đang được tranh cãi, các nghiên cứu ban đầu cho thấy cả các tác dụng có lợi cũng như các ảnh hưởng bất lợi. Gần đây, việc bổ sung corticosteroid được cho rằng có lợi cho bệnh nhân được xác định là sốc nhiễm khuẩn và bị suy thượng thận. Tuy nhiên, việc sử dụng thường xuyên corticosteroid trong sốc nhiễm khuẩn không được khuyến cáo. Một đánh giá có hệ thống đã kết luận rằng dùng corticosteroid liều cao trong khoảng thời gian ngắn không có tác dụng. Tuy nhiên, qua các phân tích tổng hợp và đánh giá cho thấy sử dụng corticosteroid liều thấp trong khoảng thời gian dài hơn (5-11 ngày) có thể làm giảm tử vong.
Hệ miễn dịch
Do có các trường hợp hiếm gặp có phản ứng trên da và các phản ứng phản vệ/ giả phản vệ đã xảy ra ở những bệnh nhân dùng corticosteroid, nên phải có các biện pháp phòng ngừa thích hợp, đặc biệt là những bệnh nhân có tiền sử dị ứng với bất kỳ một thuốc nào.
Nội tiết
Bệnh nhân đang dùng corticosteroid mà bị căng thẳng bất thường thì được chỉ định tăng liều corticosteroid tác dụng nhanh trước, trong và sau khi bị căng thẳng.
Teo vỏ thượng thận phát triển khi dùng corticosteroid kéo dài và có thể kéo dài nhiều tháng sau khi ngừng điều trị. Những bệnh nhân dùng corticosteroid toàn thân với liều lớn hơn liều sinh học (khoảng 6 mg methylprednisolon) trong khoảng thời gian nhiều hơn 3 tuần, thì không nên ngừng thuốc đột ngột. Việc giảm liều được thực hiện như thế nào là phụ thuộc nhiều vào bệnh có tái phát khi giảm liều corticosteroid toàn thân. Khi ngừng thuốc có thể cần phải đánh giá lâm sàng về bệnh. Nếu bệnh được dự đoán là không tái phát khi ngừng corticosteroid toàn thân, nhưng lại không chắc chắn về việc ức chế vùng dưới đồi-tuyến yên-thượng thận (HPA), thì có thể giảm nhanh liều dùng của corticosteroid toàn thân tới liều dùng sinh lý. Nếu dùng liều 6 mg methylprednisolon x 1 lần/ngày, thì nên giảm liều chậm để các trục HPA hồi phục.
Nếu bệnh được xem là không tái phát lại thì có thể ngừng đột ngột corticosteroid toàn thân ở những đối tượng đã dùng thuốc liên tục trên 3 tuần. Việc ngừng đột ngột liều 32 mg methylprednisolon/ ngày sau 3 tuần dùng thuốc không gây ra ức chế trục HPA trên lâm sàng trên đa số các bệnh nhân. Sau đây là những nhóm bệnh nhân nên được ngừng điều trị với corticosteroid từ từ sau khi 3 tuần dùng thuốc hoặc ít hơn:
- Những bệnh nhân đã điều trị nhiều lần với corticosteroid toàn thân, đặc biệt nếu đã dùng hơn 3 tuần.
- Dùng thuốc trong thời gian ngắn trong vòng 1 năm sau khi ngừng điều trị dài hạn.
- Những bệnh nhân bị suy vỏ thương thận mà nguyên nhân không phải là do điều trị với corticosteroid ngoại sinh. Ngoài ra, suy thượng thận cấp có thể dẫn đến tử vong nếu ngừng đột ngột glucocorticoid.
- Những bệnh nhân dùng corticosteroid toàn thân với liều lớn hơn 32 mg methylprednisolon mỗi ngày.
- Những bệnh nhân liên tục dùng thuốc vào buổi tối.
Hội chứng cai thuốc steroid, dường như không liên quan tới suy thượng thận, có thể xảy ra sau khi ngừng glucocorticoid đột ngột. Hội chứng này bao gồm các triệu chứng: chán ăn, buồn nôn, nôn, hôn mê, đau đầu, sốt, đau khớp, tróc vảy, đau cơ, sụt cân, và/hoặc hạ huyết áp. Những ảnh hưởng này được cho là do thay đổi đột ngột nồng độ glucocorticoid hơn là do nồng độ corticosteroid thấp.
Glucocorticoid có thể gây ra hoặc làm nặng thêm hội chứng Cushing, vì vậy phải tránh dùng corticosteroid ở những bệnh nhân bị Cushing.
Cần chăm sóc đặc biệt khi dùng corticosteroid toàn thân ở những bệnh nhân suy giáp và cần thường xuyên theo dõi bệnh nhân.
Chuyển hóa và dinh dưỡng
Các corticosteroid bao gồm methylprednisolon có thể làm tăng glucose máu, làm nặng thêm bệnh đái tháo đường, và gây ra bệnh đái tháo đường nếu dùng corticosteroid kéo dài.
Cần chăm sóc đặc biệt khi dùng corticosteroid toàn thân ở những bệnh nhân đái tháo đường (hoặc có tiền sử gia đình đái tháo đường) và nên thường xuyên theo dõi bệnh nhân.
Tâm thần
Bệnh nhân và/hoặc người chăm sóc bệnh nhân nên được cảnh báo về những tác dụng phụ nghiêm trọng đối với tâm thần có thể xảy ra khi dùng steroid toàn thân. Các triệu chứng thường xuất hiện sau vài ngày hay vài tuần sau khi bắt đầu điều trị. Các nguy cơ có thể dễ xảy ra hơn khi dùng liều cao/tiếp xúc toàn thân, mặc dù các mức liều dùng không thể nói trước được thời điểm bắt đầu, loại, mức độ nghiêm trọng và khoảng thời gian xảy ra các phản ứng. Hầu hết các phản ứng sẽ hồi phục sau khi giảm liều hay ngừng thuốc, mặc dù có thể cần phải điều trị đặc hiệu.
Bệnh nhân/người chăm sóc bệnh nhân nên tìm tới lời khuyên của bác sĩ nếu lo ngại về các triệu chứng tâm thần, đặc biệt là nghi ngờ có tâm trạng chán nản hoặc ý định tự sát. Bệnh nhân/người chăm sóc bệnh nhân nên cảnh giác với các rối loạn tâm thần có thể xảy ra trong hay ngay khi giảm dần/ngừng liều dùng steroid toàn thân, mặc dù các tác dụng phụ kiểu này đã được báo cáo ít gặp.
Cần chăm sóc đặc biệt khi dùng corticosteroid toàn thân cho những bệnh nhân đang có hoặc có tiền sử rối loạn cảm xúc nặng trên bản thân họ hay họ hàng đời thứ nhất của bệnh nhân. Các rối loạn này bao gồm những rối loạn cảm xúc như: trầm cảm hoặc rối loạn lưỡng cực và những rối loạn tâm thần trước đó.
Trên thần kinh
Cần chăm sóc đặc biệt khi dùng corticosteroid toàn thân cho những bệnh nhân có các rối loạn động kinh và nhược cơ nặng và nên theo dõi bệnh nhân thường xuyên.
Đã có báo cáo về chứng tích mỡ ngoài màng cứng ở những bệnh nhân dùng corticosteroid, điển hình khi dùng ở liều cao kéo dài.
Trên mắt
Cần chăm sóc đặc biệt khi dùng corticosteroid toàn thân cho những bệnh nhân bị tăng áp nhãn áp (hoặc có tiền sử gia đình về bệnh tăng nhãn áp) và nhiễm herpes simplex ở mắt vì có thể làm thủng giác mạc, và nên theo dõi bệnh nhân thường xuyên.
Sử dụng dài ngày corticosteroid có thể gây đục thủy tinh thể dưới bao sau và đục nhân thủy tinh thể (đặc biệt là ở trẻ em), lồi mắt, tăng nhãn áp, là những triệu chứng có thể dẫn đến bệnh tăng nhãn áp kèm với những tổn thương ở thần kinh thị giác.
Nhiễm nấm và nhiễm virus thứ phát ở mắt có thể bị nặng lên khi dùng glucocorticoid.
Trị liệu corticosteroid có liên quan với bệnh màng mạch-võng mạc, mà có thể dẫn tới bong võng mạc.
Trên tim
Các tác dụng phụ của glucocorticoid trên hệ tim mạch như là: rối loạn mỡ máu và tăng huyết áp, có thể làm cho những bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ về bệnh tim mạch tăng thêm nguy cơ nếu dùng thuốc ở liều cao và dài ngày. Do đó, nên dùng thận trọng corticosteroid ở những bệnh nhân này và chú ý các thay đổi có nguy cơ và theo dõi thêm chức năng tim nếu cần thiết. Liều thấp và điều trị cách ngày có thể làm giảm tỷ lệ gặp các biến chứng trong điều trị corticosteroid.
Nên dùng thận trọng corticosteroid toàn thân và chỉ dùng khi thực sự cần thiết trong các trường hợp bị suy tim sung huyết.
Cần chăm sóc đặc biệt khi dùng corticosteroid toàn thân cho những bệnh nhân mới bị nhồi máu cơ tim (đứt cơ tim đã được báo cáo) và nên thường xuyên theo dõi bệnh nhân.
Nên dùng thận trọng ở những bệnh nhân đang dùng thuốc tim mạch ví dụ như digoxin vì do steroid gây rối loạn điện giải/mất kali.
Trên mạch máu
Cần chăm sóc đặc biệt khi dùng corticosteroid toàn thân cho những bệnh nhân có các bệnh lý sau và nên thường xuyên theo dõi bệnh nhân:
- Tăng huyết áp.
- Có khuynh hướng viêm tĩnh mạch huyết khối.
- Các chứng huyết khối bao gồm thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch đã được báo cáo với corticosteroid. Nên phải dùng thận trọng corticosteroid ở những bệnh nhân đang mắc hoặc có khuynh hướng mắc các rối loạn về huyết khối.
Trên đường tiêu hóa
Liều cao của các corticosteroid có thể gây ra viêm tụy cấp.
Cần chăm sóc đặc biệt khi dùng corticosteroid toàn thân cho những bệnh nhân có các bệnh lý sau và nên thường xuyên theo dõi bệnh nhân:
- Loét đường tiêu hóa.
- Mới nối ruột.
- Áp xe hoăc các nhiễm trùng sinh mủ.
- Viêm loét đại tràng.
- Viêm ruột thừa.
- Trị liệu glucocorticoid có thể che dấu viêm phúc mạc hoặc các dấu hiệu hoặc các triệu chứng liên quan đến bệnh rối loạn tiêu hóa như thủng, tắt nghẽn hoặc viêm tụy. Sử dùng đồng thời với NSAIDs làm tăng nguy cơ viêm loét đường tiêu hóa.
Trên gan mật
Cần chăm sóc đặc biệt khi dùng corticosteroid toàn thân cho những bệnh nhân bị suy gan hoặc xơ gan và nên thường xuyên theo dõi bệnh nhân.
Các rối loạn trên gan mật thì hiếm gặp và đa số các trường hợp đều hồi phục sau khi ngừng điều trị. Vì thế cần có sự theo dõi bệnh thích hợp.
Trên cơ xương khớp
Bệnh cơ cấp tính đã được báo cáo khi dùng liều cao corticosteroid, và hầu hết xảy ra ở những bệnh nhân có các rối loạn về dẫn truyền thần kinh cơ (ví dụ như bệnh nhược cơ) hoặc ở những bệnh nhân dùng đồng thời với các thuốc kháng cholinergic, ví dụ như thuốc ức chế thần kinh cơ (ví dụ pancuronium). Bệnh cơ cấp tính này lan rộng, có thể lan đến các cơ mắt và cơ hô hấp, và có thể dẫn đến yếu tứ chi. Tăng creatin kinase có thể xảy ra. Sự cải thiện hoặc hồi phục trên lâm sàng có thể cần hàng tuần tới hàng năm.
Cần chăm sóc đặc biệt khi dùng corticosteroid toàn thân cho những bệnh nhân bị loãng xương (đặc biệt là ở nữ giới sau thời kỳ mãn kinh) và nên thường xuyên theo dõi bệnh nhân.
Thận và tiết niệu
Cần chăm sóc đặc biệt khi dùng corticosteroid toàn thân cho những bệnh nhân suy thận và nên thường xuyên theo dõi bệnh nhân.
Chấn thương, ngộ độc và các biến chứng
Corticosteroid toàn thân không được chỉ định, và vì thế không dùng để điều trị chấn thương não, do trong một nghiên cứu đa trung tâm cho thấy tăng tỷ lệ tử vong lúc 2 tuần và 6 tháng sau khi bị chấn thương ở những bệnh nhân dùng methylprednisolon natri succinat so với nhóm dùng giả dược. Chưa thiết lập mối quan hệ nhân quả do dùng methylprednisolon natri succinat.
Các thận trọng khác
Có thể giảm thiểu các tác dụng không mong muốn bằng cách dùng liều thấp nhất có tác dụng trong thời gian ngắn nhất, và dùng liều đơn vào buổi sáng cho chế độ dùng hàng ngày hoặc cách ngày. Nên theo dõi bệnh nhân thường xuyên để đưa ra chế độ liều điều trị phù hợp.
Điều trị phối hợp với các chất ức chế CYP3A, như các sản phẩm chứa cobicistat, sẽ làm tăng nguy cơ phản ứng phụ toàn thân. Nên tránh phối hợp trừ khi lợi ích có giá trị vượt trội hơn việc tăng nguy cơ gặp tác dụng phụ toàn thân liên quan đến corticosteroid.
Nên thận trọng khi phối hợp corticosteroid với aspirin và các các thuốc chống viêm không steroid.
Bệnh u tế bào ưa crom có thể gây ra tử vong đã được báo cáo sau khi dùng corticosteroid toàn thân. Chỉ nên dùng corticosteroid ở những bệnh nhân nghi ngờ hoặc bị u tế bào ưa crom sau khi đã tiến hành đánh giá nguy cơ/lợi ích phù hợp.
Trẻ em: corticosteroid làm chậm sự phát triển của phôi thai, trẻ em và thanh thiếu niên. Nên theo dõi cẩn thận sự phát triển và tăng trưởng của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ dùng corticosteroid dài ngày. Việc điều trị nên được giới hạn ở mức liều tối thiểu trong thời gian ngắn nhất có thể. Để giảm ức chế trục HPA và làm chậm sự phát triển, thì chỉ nên điều trị ở những bệnh nhân có thể dùng thuốc với liều đơn dùng cách ngày.
Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ điều trị corticosteroid dài ngày đặc biệt có nguy cơ tăng áp lực nội sọ.
Liều cao corticosteroid có thể gây ra viêm tụy ở trẻ em.
Người già: các tác dụng phụ thường gặp của corticosteroid toàn thân có thể nặng hơn trên người già, đặc biệt là bệnh loãng xương, tăng huyết áp, hạ kali máu, tiểu đường, dễ bị nhiễm trùng và mỏng da. Cần phải giám sát lâm sàng để tránh các phản ứng đe dọa tới tính mạng.
Những ảnh hưởng của corticosteroid lên khả năng lái xe và sử dụng máy móc chưa được đánh giá một cách hệ thống. Các tác dụng phụ như chóng mặt, hoa mắt, rối loạn thị giác và mệt mỏi có thể xảy ra sau khi điều trị với corticosteroid. Nếu bị ảnh hưởng thì bệnh nhân không nên lái xe hay vận hành máy móc.